Trong quá trình chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch luôn nhằm vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta; trong đó, có học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin. Chúng xuyên tạc rằng, học thuyết kinh tế ấy đã lỗi thời, không còn mang tính cách mạng và khoa học, vì thế không có ích gì cho đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam.
Nhằm góp phần phản bác quan điểm sai trái đó, từ số này, Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu bài viết, với tiêu đề: “Không thể bác bỏ học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin” của GS, TS. Chu Văn Cấp, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
I. Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước và tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế là đúng về lý luận và phù hợp với thực tiễn. Vậy mà, một số người lại cho rằng, kinh tế nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo, vai trò đó thuộc về kinh tế tư nhân. Từ đấy họ kêu gọi tư nhân hóa nền kinh tế. Xem xét một cách khách quan, khoa học, thì đó là điều không thể.
1. Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước.
Mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có quan hệ sản xuất thống trị, theo đó có thành phần kinh tế chủ đạo. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thành phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là chủ yếu, là nền tảng. Ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng có kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước được xây dựng trên cơ sở sở hữu nhà nước tư bản độc quyền. Dù họ không xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng kinh tế nhà nước tư bản độc quyền có vai trò to lớn.
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Song, sở hữu nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo và là một trong các yếu tố quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó được khẳng định tại Khoản 1, Điều 51, Hiến pháp năm 20131, là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn nước ta.
Kinh tế nhà nước đã và đang giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước được cấu thành từ: (1) Bộ phận doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; (2) Bộ phận phi doanh nghiệp, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao gồm cả đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, v.v. Với phạm vi rộng lớn như vậy, sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước giữ vị trí trọng yếu, vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp; đã và đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trong đó, hệ thống doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt, đang được đổi mới, mặc dù tỷ trọng GDP có giảm sút từ 29,34% năm 2010, còn 29,01% năm 2013 và 28,69% năm 2015, nhưng vẫn giữ vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn Nhà nước cần nắm giữ, v.v. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước do sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa nên tuy số lượng giảm, lĩnh vực, địa bàn thu hẹp, nhưng vẫn có bước phát triển mạnh về quy mô tài sản, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013, riêng 18 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn có vốn nhà nước là 840 nghìn tỷ đồng (chiếm 83% vốn nhà nước tại doanh nghiệp), tổng giá trị tài sản 1.985 nghìn tỷ đồng, tổng doanh thu 1.184 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 136 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 191 nghìn tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành lực lượng nòng cốt để thực hiện vai trò quan trọng trong ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần to lớn trong đảm bảo quốc phòng - an ninh, an ninh lương thực, an ninh năng lượng quốc gia. Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ yếu hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng đầu tư vào những lĩnh vực, các công trình,… trọng điểm quốc gia đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm và lợi nhuận thấp, v.v. Đồng thời, là đội quân chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút FDI, có vai trò tích cực trong việc hạn chế những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta trong các năm 2008 - 2010. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả, như: Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Bưu chính viễn thông, Tập đoàn Công nghiệp hóa chất, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản, v.v.
Tuy nhiên, kinh tế nhà nước cũng có những hạn chế, yếu kém. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng suất của tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước còn thấp và rất thấp. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, thất thoát và thua lỗ còn lớn. Tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, độc quyền doanh nghiệp đang hiện hữu, làm méo mó quan hệ thị trường, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, hạn chế sự cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế, v.v. Một số người chỉ dựa vào những yếu kém, hạn chế của kinh tế nhà nước mà cho rằng thành phần kinh tế này không thể giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế; rằng xác định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Việt Nam đã phải trả giá quá đắt”(!) Từ đó, họ đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này; đòi tư nhân hóa hết doanh nghiệp nhà nước, “khuyên” ta nên bỏ cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”,... đều là những cách nhìn phiến diện.
Mặc dù doanh nghiệp nhà nước (bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước) thời gian qua có những hạn chế, yếu kém, nhưng đó là những yếu kém trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, là sai lầm và yếu kém của một số cá nhân lãnh đạo và nhà quản trị doanh nghiệp,… chứ không phải là sai lầm về quan điểm, chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Hơn nữa, nhìn chung toàn bộ nền kinh tế; trong đó, có kinh tế nhà nước dựa trên lực lượng sản xuất còn thấp kém, cùng với nền kinh tế thị trường còn rất mới và hội nhập quốc tế, thì những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng là khó tránh khỏi. Thực tế cũng cho thấy, ở Việt Nam, không phải mọi doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động có hiệu quả. Chúng ta đã và đang chứng kiến nhiều “đại gia” của kinh tế tư nhân “ngã ngựa”; thua lỗ, mất trắng doanh nghiệp, phải đi làm thuê hoặc rơi vào vòng lao lý, tù tội, v.v. Vậy là, hiệu quả sản xuất, kinh doanh không hẳn là do sở hữu quyết định. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng không ít doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, yếu kém,… do yếu tố cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế,… gây ra.
2. Không thể tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế tư nhân.
Thành phần kinh tế tư nhân ra đời trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân, hay chế độ tư hữu (sở hữu cá thể, tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân) và bao gồm: thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân (nói gọn là tư nhân và cá thể). Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, thì kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển; coi đó là “vấn đề chiến lược lâu dài” trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đến nay, kinh tế tư nhân đã phát triển và trở thành lực lượng kinh tế lớn mạnh, đóng vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích các chủ thể kinh tế tư nhân làm giàu hợp pháp và góp phần làm giàu cho xã hội là cách thức quan trọng giải phóng sức sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, kinh tế tư nhân đã góp phần huy động các nguồn lực (vốn, nhân công, khoa học - công nghệ) vào sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách nhà nước. Đồng thời, tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế tư nhân tạo sức ép thúc đẩy đổi mới doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và đổi mới quản lý nhà nước; tạo ra đội ngũ doanh nhân năng động, có khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua 30 năm đổi mới, diện mạo của khu vực kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi rõ rệt; số lượng doanh nghiệp tư nhân không ngừng phát triển với quy mô rộng lớn hơn, tham gia ở tất cả các lĩnh vực, từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ (cả dịch vụ công),... đóng góp ngày càng nhiều cho kinh tế và xã hội. Hiện cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp tư nhân, chiếm 90% số doanh nghiệp cả nước và khoảng 1 triệu hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ. Trong giai đoạn 2006 - 2015, so với kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40% GDP của cả nước; 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp; khoảng 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ; 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển. Giai đoạn 2011 - 2015, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 36% tổng vốn đầu tư phát triển; thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Ưu thế nổi bật của kinh tế tư nhân trong giải quyết việc làm là có thể thu hút được lực lượng lao động đa dạng: từ lao động có trình độ cao đến lao động giản đơn; mức đầu tư cho một chỗ làm việc thấp hơn so với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, nó có sức vươn lên mạnh mẽ, đóng góp nhiều vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Song, không vì thế mà đề cao quá mức, dẫn đến tuyệt đối hóa kinh tế tư nhân, rằng kinh tế tư nhân là ''nền tảng'' của nền kinh tế và gán cho nó ''vai trò chủ đạo'' - vai trò mà bản thân nó không bao giờ đảm nhận nổi. Hiện nay, có tới 98% doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân có quy mô vừa và nhỏ; trong đó, doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ (sử dụng dưới 5 lao động và vốn kinh doanh dưới 10 tỷ đồng) chiếm tỷ trọng đáng kể (96%). Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân lớn trong số doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp, so với quy mô của các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài thì cũng chẳng đáng là bao.
Hằng năm, VnReport công bố danh sách tốp 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, tính cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân, số doanh nghiệp tư nhân trong tốp 500 và tốp 100 có tăng, nhưng chưa nhiều. Ở Việt Nam, tập đoàn kinh tế tư nhân đã hình thành và ngày càng mang dáng vóc của một tập đoàn kinh tế, như: VinGroup, Hòa Phát, TH True Milk, Macsan, SunGroup,… nhưng còn rất ít. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP đã lên đến trên 40%, nhưng chủ yếu là của bộ phận cá thể, còn doanh nghiệp tư nhân đóng góp tỷ lệ rất nhỏ. Năm 2005, đóng góp vào GDP của doanh nghiệp tư nhân là 8,51%, bộ phận cá thể là 32,06%; con số tương ứng của năm 2010 là: 6,90% và 32,07%; năm 2015 là 7,80% và 31,33% và năm 2016 là 7,90% và 31,50%2, v.v. Mức đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân như vậy thì làm sao đảm đương nổi “vai trò chủ đạo”? Cùng với đó, năng lực cạnh tranh của thành phần kinh tế này còn thấp, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chưa cao, nguồn lực tài chính và trình độ trang thiết bị kỹ thuật còn nhỏ bé, thấp kém. Năng lực quản trị còn nhiều hạn chế, đại bộ phận các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân thực hiện kinh doanh theo “kiểu ngắn hạn”, chưa hoạch định được chiến lược kinh doanh dài hạn, v.v. Ngoài ra, vẫn còn tồn tại “tính tự phát”, “vô chính phủ” trong sản xuất, kinh doanh. Hơn nữa, tư nhân không muốn và không đủ sức đầu tư vào những công trình lớn, xây dựng dài ngày, hiệu quả đầu tư thấp, thu hồi vốn chậm và những công trình công ích lãi suất thấp hoặc phi lợi nhuận. Từ đó cho thấy, nếu giao “vai trò chủ đạo” nền kinh tế cho kinh tế tư nhân thì chẳng khác gì giao một nhiệm vụ “không tưởng” vượt khỏi khả năng đảm đương của nó. Như vậy, không nên ảo tưởng rằng, kinh tế tư nhân có thể đóng ''vai trò chủ đạo” nền kinh tế.
Đảng ta đã xác định xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế là định hướng chính trị đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Một số người đã tìm cách cổ súy, cố tình đòi tư nhân hóa nền kinh tế, là thông qua kinh tế để chuyển hóa về chính trị Việt Nam. Bởi cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, khi tư nhân hóa nền kinh tế thì tất yếu đất nước sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đây là mưu đồ rất nguy hiểm. Chúng ta hãy cảnh giác với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những ý kiến phủ nhận đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, hạ thấp vai trò của kinh tế nhà nước, cổ vũ cho tư nhân hóa nền kinh tế, tiến tới làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta.
GS, TS. CHU VĂN CẤP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét