Thứ Hai, 2 tháng 10, 2017

Sự khác biệt về bản chất giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đổi mới

Đánh tráo khái niệm là một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị thường dùng, hòng đánh lừa dư luận, gây sự hoài nghi trong nhân dân. Nguy hiểm hơn là, chúng đã đánh đồng giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhằm làm mất đi bản chất, ý nghĩa chính trị to lớn của sự nghiệp đổi mới này. 

Sau Đại hội XII của Đảng, đặc biệt sau Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trên một số mạng xã hội đã phát tán ý kiến về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Hội nghị đã nêu. Trong một cuộc “tọa đàm bàn tròn” trên BBC, có vị “khách mời”  cho rằng: khái niệm “tự diễn biến” là cực kỳ mơ hồ, điều đó thể hiện sự “bế tắc về lý luận” (!) Cũng theo vị khách đó, nếu một cơ thể mà không “tự chuyển biến”, “tự diễn biến”, thì đó là một cơ thể chết. Xã hội cũng vậy, một xã hội muốn phát triển phải tự vận động và trong quá trình vận động đương nhiên phải “có chuyển biến”. Ý kiến trên và những quan điểm tương tự được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây, như: VOA, RFA, CNN và nhiều trang mạng trong và ngoài nước như “vớ được vàng”, lập tức tung hô, tán thưởng. Có người còn cho rằng, làm gì còn đổi mới, làm gì còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, làm gì còn xã hội xã hội chủ nghĩa, chẳng phải “Đảng cộng sản Việt Nam đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó sao?
Vậy bản chất quan điểm nói trên là gì?
 Trước hết, đối với quan điểm phủ nhận tư tưởng đổi mới, đồng nhất giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đổi mới.
Còn nhớ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã quyết định thay đổi đường lối chính trị - kinh tế, chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội (với nhà nước chuyên chính vô sản, kinh tế kế hoạch hóa,…) sang xây dựng đất nước theo mô hình mới của chủ nghĩa xã hội (với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,…). Cùng thời điểm đó xảy ra cuộc khủng hoảng, sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm 1985-1991 đã đặt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vào một tình thế vô cùng khó khăn. Song, với bản lĩnh chính trị vững vàng và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, nhất là chứng kiến cuộc khủng hoảng trên, Đảng ta sớm nhận thấy những nguy cơ đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, đặc biệt là nguy cơ xa rời con đường xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI, tháng 3-1989) Đảng ta đã đề ra các nguyên tắc đổi mới, trong đó có hai nguyên tắc then chốt: chủ nghĩa Mác - Lê-nin (sau này được Đảng ta bổ sung thêm tư tưởng Hồ Chí Minh) là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước sang nhiệm kỳ Đại hội VII, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (01-1994) Đảng ta tiếp tục chỉ ra 4 “nguy cơ” đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, là: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đúng như dự báo của Đảng ta về nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, trong thập kỷ qua đã có nhiều biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở ngay trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị - xã hội. Điển hình là trước Đại hội XI của Đảng (01-2011) và Kỳ họp thứ 6 (11-2013) Quốc hội (khóa XIII) thông qua Hiến pháp năm 2013, một số cá nhân và nhóm xã hội mạng lâm thời, trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên thuộc nhóm1 “Kiến nghị 72” đã kiến nghị: “xóa bỏ Điều 4 Hiếp pháp 2013 (về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam), chấp nhận “cạnh tranh chính trị”. Đồng thời, họ “kiến nghị” “phi chính trị hóa” Quân đội, và cho rằng: “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào,…”. Nhóm “Thư ngỏ 61” (sau đó là nhóm “Thư ngỏ 127”) kiến nghị với Bộ chính trị: “chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ,...”. Họ còn kiến nghị thay đổi đường lối quốc phòng - an ninh: “Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi…”.
Như vậy, thực chất của quan điểm phủ nhận đường lối đổi mới, đồng nhất quan điểm đối mới với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là thể hiện sự dao động chính trị; về bản chất đó là phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc ta. Đối với cán bộ, đảng viên, điều này cũng có nghĩa là họ đã làm trái với Điều lệ Đảng và các quy định khác của Đảng.
Thứ hai, sự khác biệt giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đổi mới.
Về mặt triết học, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đổi mới đều là sự vận động của xã hội. Tuy nhiên, lấy sự vận động nói chung của xã hội để che dấu sự khác biệt giữa các xu hướng chính trị, đặc biệt là sự khác biệt giữa đường lối đổi mới của Đảng ta với tư tưởng cơ hội về chính trị - từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa chuyển sang con đường tư bản chủ nghĩa theo mô hình phương Tây chỉ là một thủ đoạn chính trị mà thôi. Sự khác biệt giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đường lối đổi mới là ở hai xu hướng chính trị trái chiều: tư tưởng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhằm thúc đẩy xã hội theo con đường tư bản chủ nghĩa, còn đổi mới là tư tưởng chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên sự kiên định này không đồng nghĩa với chủ nghĩa giáo điều mà là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của dân tộc ta trong thời đại ngày nay. 
Thứ ba, từ hiện thực.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định nhiều giải pháp, từ tư tưởng, chính trị đến tổ chức thực hiện và công tác xây dựng Đảng. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1.900 USD năm 2013 lên 2.215 USD năm 2016. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có bình quân thu nhập trung bình. Các quyền con người, trong đó có quyền dân sự, chính trị, nhất là quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do in-tơ-nét được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 50 triệu người sử dụng in-tơ-nét, chiếm 52% dân số; riêng số người sở hữu tài khoản Facebook  lên tới 35 triệu người, bằng 1/3 dân số, trong đó 21 triệu người truy cập hàng ngày thông qua thiết bị di động. Phó Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành Google tại Đông Nam Á và Ấn Độ Rajan Anandan đã khẳng định: “Việt Nam là nước có thị trường in-tơ-nét năng động nhất thế giới, thị trường duy nhất có số người dùng in-tơ-nét nhiều hơn số người không dùng”.
Trong quá trình thực hiện đổi mới, Đảng ta luôn luôn đặt lợi ích của Quốc gia - dân tộc lên trên hết. Đại hội XII của Đảng xác định: đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu; đồng thời, khẳng định ý chí quyết tâm, “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất nước bị động, bất ngờ trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) lấy nhiệm vụ “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng cũng nhằm đảm bảo sứ mệnh lịch sử của Đảng ta là lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Về đường lối đối ngoại và quốc phòng, an ninh, Đảng tập trung vào nhiệm vụ duy trì môi trường hòa bình để xây dựng đất nước. Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam: những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Qua đó khẳng định, không có chuyện đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam là “tự cô lập mình”! 
Như vậy, sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta chính là sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật hết sức khoa học để giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra, hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang từng bước hiện thực hóa trong thực tiễn, được nhân dân đồng lòng ủng hộ, quyết tâm thực hiện.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Điều đó chứng minh công cuộc đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật. Đó là sự thật, là chân lý. Tự nó bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc!
 Bắc Hà
______

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét