Mô hình CNXH là gì? Đó là sự thể hiện nhận thức của Đảng Cộng sản ở mỗi nước về xã hội XHCN sẽ xây dựng. Kinh nghiệm cho thấy, nó liên quan trực tiếp đến hiệu quả, thậm chí thành bại trong xây dựng CNXH.
Theo cách hiểu chung, mô hình CNXH là quan niệm về chế độ kinh tế - chính trị - xã hội được xây dựng theo nguyên tắc của CNXH khoa học và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó bao gồm những đặc trưng về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng...theo đó, bản chất của CNXH dần được hoàn chỉnh và bộc lộ ra các đặc điểm ưu việt(1).
Giai đoạn 1954 - 1975, chúng ta chưa thể dành nhiều thời gian, trí lực để tư duy sâu sắc, đầy đủ về mô hình CNXH ở Việt Nam. Do bối cảnh lịch sử, thời kỳ này, vấn đề mô hình CNXH ở Việt Nam cũng chưa đặt ra trực diện và gay gắt. Trong một thời gian khá dài, quan niệm CNXH ở Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu “mô hình Liên Xô”. Dù không ít bất cập, nhưng nó có khá nhiều cơ sở thực tiễn thuyết phục rằng, mô hình Liên Xô là tốt nhất: mô hình ấy đã thành công trong hệ thống XHCN và đã là thực tế ở miền Bắc XHCN - hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Trong điều kiện chiến tranh, do bị bao vây, cấm vận, nhận thức của chúng ta về mô hình Liên Xô là hợp lý, chỉ cần làm đúng chứ không cần phải hoàn thiện, đổi mới.
Mô hình CNXH ở Việt Nam thời kỳ này được nhận thức là đang ở giai đoạn CNXH đã “phát triển đầy đủ trên cơ sở của chính mình”. Có nghĩa là, nó mang nhiều đặc điểm vượt trước khá xa thời kỳ quá độ. Nó có thể hợp lý ở vai trò định hướng, nhưng đối với chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, các tiêu chí ấy tỏ ra chưa phù hợp với hiện trạng. Chẳng hạn, về mô hình kinh tế “trong tư duy của nhiều người còn mang mô hình của một CNXH thuần khiết ngay từ đầu, với quan hệ sản xuất công hữu hoàn toàn, công quản hoàn toàn và công ích hoàn toàn, trong khi thực tiễn lịch sử đòi hỏi phải biết sử dụng tư hữu, khoán quản, hạch toán kinh tế và lợi ích riêng tư”(2).
TạiĐại hội IV (1976) quan niệm về “chế độ làm chủ tập thể XHCN” có thể coi là điển hình cho nhận thức của Đảng về chế độ XHCN giai đoạn 1976 - 1986. Đại hội IV nêu rõ: “Nội dung của làm chủ tập thể XHCN bao gồm nhiều mặt: làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở; là kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với quyền tự do chân chính của từng cá nhân”(3). Đại hội V (1981) tiếp tục khẳng định quan điểm trên: “xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN”.
Thuật ngữ “chế độ làm chủ tập thể XHCN” khá mới mẻ, nội dung đã phản ánh những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và những mục tiêu lớn của đất nước. Tuy vậy, “chế độ làm chủ tập thể XHCN” vẫn mang tính lý tưởng nhiều hơn thực tế. “Đặc điểm to nhất” của bối cảnh quá độ ở Việt Nam là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhưng CNXH ở Việt Nam vẫn được tư duy là ở trình độ phát triển cao về kinh tế và xã hội. Quan niệm về sở hữu còn phiến diện, khá giản đơn, chẳng hạn, cường điệu vai trò của công hữu, đối lập sở hữu tư nhân với CNXH. Vai trò của thị trường, của sản xuất hàng hóa, hội nhập quốc tế, những yếu tố mà trong đổi mới được thừa nhận là động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội vẫn chưa được đề cập...
Trong khái niệm “làm chủ tập thể XHCN” có một số tiêu chí “đi quá xa” so với chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Mặt khác, “làm chủ tập thể” còn được hiểu và thực hiện trên thực tế theo nhiều cách khác nhau.
Từ Đại hội VI, quan niệm về “làm chủ tập thể XHCN” không còn được nhắc tới như một đặc trưng của CNXH trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, thay vào đó là những tư duy thực tế hơn.
2. Đổi mới tư duy về mô hình CNXH ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Cuối những năm 70 đầu 80 thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều hành động “khoán chui, xé rào” của quần chúng, cán bộ cơ sở như là những phản ứng tự vượt - thoát cơ chế quản lý cũ. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI của Đảng đã phê phán những bất cập, sai lầm trong quan niệm, cách làm cũ, đổi mới tư duy nhận thức về CNXH và biện pháp xây dựng CNXH ở nước ta.
Đại hội VI xác định, trọng tâm của đổi mới tư duy là trên lĩnh vực kinh tế. Trước hết, quan niệm mới về kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh, tập thể, kinh tế gia đình và “các thành phần kinh tế khác” gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước... với nhiều hình thức sở hữu. Về cơ chế quản lý kinh tế cũ, Đại hội VI với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đã chỉ rõ: “Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội...”(4).
Tuy chưa đề ra quan niệm đầy đủ về mô hình mới, nhưng những đổi mới trong tư duy kinh tế cho thấy, Đảng ta đã hướng thẳng vào ba khâu quan trọng nhất là sản xuất, quản lý, phân phối. Chuyển đổi đầu tiên là sự kết hợp giữa kế hoạch hóa với “thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN”, khái niệm ban đầu của cơ chế kinh tế thị trường sau này. Nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu, với động lực thúc đẩy là kết hợp hài hòa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của người lao động. Tư duy mới về cơ chế quản lý được khẳng định không dễ dàng, vẫn còn sự nhấn mạnh: “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế”(5).
Khái niệm mô hình CNXH xuất hiện lần đầu tiêntại Nghị quyết Trung ương số 8A, khóa VI, ngày 27-3-1990 về “tình hình các nước XHCN, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Trong đó, có nhận định về các vấn đề của mô hình cũ: “Những thành tựu của CNXH đã thu được gắn liền với mô hình xây dựng CNXH ở Liên Xô trước đây”... “từ khi ra đời, các nước XHCN về đại thể đã áp dụng mô hìnhxây dựng CNXH của Liên Xô và cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng... Nhưng mặt khác, ngay từ đầu, mô hìnhấy được hình thành trong hoàn cảnh đặc biệt, đã chứa đựng một số nhược điểm và khuyết điểm...”(6).
Tuy vậy, tư duy giai đoạn này mới bắt đầu từ đổi mới biện pháp chứ chưa hướng tới mô hình mới về CNXH ở Việt Nam.
Đại hội VII (1991) bước đầu xác định những đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện quan trọng này, vấn đề “xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng là như thế nào?” đã lần đầu tiên được đề cập tới một cách hệ thống dưới hình thức luận đề. Cương lĩnh đã bước đầu xác định sáu đặc trưng của CNXH ở Việt Nam(7). Đây là lần đầu tiên, sau hơn 30 năm xây dựng CNXH (1954 - 1991), nhận thức của Đảng ta về các đặc trưng của CNXH ở Việt Nam mới được thể hiện một cách hệ thống.
Về CNXH ở Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ, đó là một xã hội: “Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”(8).
Các đặc trưng đó quy định bảy phương hướng - biện pháp để xây dựng CNXH ở Việt Nam(9). Trong đó, “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” đã trở thành đúc kết lý luận đầu tiên về biện pháp xây dựng CNXH của Việt Nam.
Điểm đáng lưu ý là lần đầu tiên, tiêu chí “dân giàu” xuất hiện trong mục tiêu xây dựng CNXH”(10) và trong nguyên tắc để đánh giá những tư duy mới: “Các chủ trương đổi mới đều phải nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng CNXH, làm cho dân giàu, nước mạnh, đều phải lấy kết quả xây dựng CNXH ở Việt Nam để kiểm nghiệm”(11). Dân giàu là dân được phép làm giàu. Trong kinh tế thị trường, hiệu quả xã hội của hoạt động kinh tế trước tiên là sự giàu có, “ăn nên, làm ra” của dân. Sự giàu có, hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của độc lập, tự do; là một thước đo để đánh giá những tìm tòi đổi mới, là cội nguồn của “nước mạnh”. Đảng, Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân “tự mưu cầu hạnh phúc” chứ không phải lo cuộc sống cho dân bằng bao cấp. Chân lý ấy phải trải qua một chặng đường khá dài để thấu đạt, nay đã được khẳng định. Bước chuyển biến tư duy ấy, thật to lớn và không hề dễ dàng.
Nhận thức rõ những biến đổi nhanh chóng của thời đại và giới hạn của nhận thức lý luận, Đảng ta cũng nhận định: “Quan niệm về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở nước ta đã có thể hình thành trên những nét chủ yếu. Đương nhiên, những gì mà nhận thức của chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và của tư duy lý luận”(12).
Đại hội VIII(1996) tiếp tục bổ sung những quan điểm cơ bản về kinh tế thị trường như một yếu tố làm cơ sở cho mô hình kinh tế của CNXH ở Việt Nam. Tuy diễn đạt vẫn có chỗ định danh bằng cấu trúc là “nền kinh tế nhiều thành phần”, “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” hoặc “sản xuất hàng hóa”, nhưng quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường đã khá rõ ràng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”(13).
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện sáu biện pháp định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là những nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng kinh tế cho CNXH ở Việt Nam.
Đại hội IX (2001) làm rõ kiểu quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) của CNXH ở Việt Nam. “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(14).
Mô hình CNXH ở Việt Nam đã được xác định là mô hình CNXH của thời kỳ quá độ chứ không phải là mô hình của CNXH ở giai đoạn phát triển. Nó được định tính bằng nhiều tiêu chí: thời gian lâu dài, không gian với nhiều chặng đường; nội dung là bỏ qua chế độ TBCN “tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN” chứ không bỏ qua những thành tựu văn minh nhân loại đạt được trong CNTB như kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, chế độ dân chủ, đặc biệt là về khoa học và công nghệ “để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”; biện pháp là “chấp nhận những biện pháp quá độ với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”, cấu trúc của “các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen, đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Quan niệm mới về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam cũng đã được làm rõ hơn. Trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH, mục tiêu là khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Quan niệm về kinh tế thị trường, đến Đại hội IX đã phát triển từ cơ chế vận hành, quản lý trở thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với vai tròlà mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đó là nền kinh tế sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước XHCN. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân”(15).
Đại hội X (2006) xác định rõ hơn mô hình của “xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”(16).
Dấu hiệu của tư duy phiến diện, “tả khuynh”, chỉ có “nhân dân lao động” mới là chủ thể của xã hội XHCN, đã được điều chỉnh. Chủ thể của quá trình xây dựng CNXH là nhân dân, có nội hàm rộng hơn so với “nhân dân lao động” trong Cương lĩnh 1991. “Dân giàu” đã trở thành đặc trưng kinh tế ở vị trí hàng đầu. Dân chủ đã được bổ sung là một trong những đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN đã được coi như một đặc trưng về thể chế chính trị của CNXH ở Việt Nam chứ không chỉ là biện pháp để xây dựng CNXH như các đại hội trước đây.
Tại Đại hội XI (2011), đặc trưng của CNXH ở Việt Nam đã được bổ sung, phát triển thêm so với Cương lĩnh 1991 và các đại hội trước đó. Đặc trưng tổng quát của CNXH ở Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Có sự khác biệt trong cách diễn đạt một số đặc trưng. Đại hội X diễn đạt là “công bằng, dân chủ”; Đại hội XI là “dân chủ, công bằng”. Theo đó, dân chủ trở thành tiêu chí được ưu tiên như là điều kiện, động lực phát triển, đặc điểm và mục tiêu của CNXH ở Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Thời gian xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH được định rõ là “đến giữa thế kỷ XXI” với tiêu chí định tính là “nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN”.
Đại hội XII (2016) tổng kết: những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới về lý luận, trong đó có nhận thức về mô hình CNXH ở Việt Nam đã “tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(17). Tuy vậy, “lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”(18). Hiển nhiên, làm rõ đến từng chi tiết mô hình của CNXH ở Việt Nam sẽ là một trong những trọng tâm cần tiếp tục để tổng kết và phát triển lý luận.
Có một vấn đề mang tính quy luật rằng, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam. Biện pháp phát triển nhận thức là thông qua tổng kết thực tiễn và đúc kết lý luận; cách thức phát triển là tiệm tiến kết hợp với mạnh dạn đột phá tư duy để đáp ứng nhu cầu của đổi mới. Chính nhu cầu thực tiễn này là một trong những động lực thúc đẩy tư duy lý luận về mô hình CNXH ở Việt Nam.
Mô hình CNXH không chỉ là mục tiêu hướng tới mà còn là tiêu chí để xác định các biện pháp đổi mới. Việc nhận thức ngày càng rõ hơn trên những nét cơ bản mô hình CNXH là những bước tiến của tư duy lý luận, được xác minh bằng thực tiễn đổi mới, có tác dụng to lớn để phát triển nhận thức lý luận và tăng cường đồng thuận xã hội với mục tiêu phát triển của đất nước.
__________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét