Vai trò và mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội
Cho đến nay, người ta vẫn thừa nhận nhà nước đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển, thị trường không thể hoạt động trong một khoảng trống mà nó đòi hỏi có một khung khổ pháp lý và quy định mà chỉ có nhà nước mới tạo ra được. Có thể thấy, với xu hướng chung, không một xã hội nào phó mặc cho nhà nước và thị trường điều hành đời sống kinh tế - xã hội, vấn đề không phải là liệu nhà nước hay thị trường và xã hội đóng vai trò khống chế, mà là mỗi bên có vai trò riêng. Đại hội XII của Đảng khẳng định, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong việc huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Tuy vậy, trên thực tế đã có không ít trường hợp, vụ, việc cho thấy cả nhà nước và thị trường đều thất bại và do đó đã xuất hiện “bàn tay thứ ba” - xã hội và các tổ chức xã hội có vai trò không nhỏ trong việc bảo đảm sự cân bằng mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Vai trò của các tổ chức xã hội theo tiến trình họ tham gia, có thể khái quát như sau: tham gia cung cấp các dịch vụ công, các dịch vụ cho người nghèo, những người yếu thế trong xã hội; thực thi các chính sách của Nhà nước, vận động, đối thoại giám sát và phản biện xã hội...
Như vậy, xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT), nâng cao vai trò của Nhà nước, phát huy vai trò của xã hội là hoạt động diễn ra đồng thời, làm tiền đề cho nhau và quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình đổi mới
Trong quá trình đổi mới, tư duy về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta ngày càng được khẳng định rõ hơn, thể hiện ở một số kết quả đạt được như sau:
- Xác định ngày càng rõ hơn vai trò quản lý nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN; từng bước xác định giới hạn, phạm vi, nội dung và phương thức quản lý nhà nước cho phù hợp với nền KTTT.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, quản lý nhà nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc chung của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền KTTT như mọi quốc gia khác. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm mục tiêu hạn chế và khắc phục những thất bại của KTTT. Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang KTTT định hướng XHCN ở nước ta, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các rào cản do các chính sách của Nhà nước tạo ra. Khi ấy Nhà nước phải loại bỏ các rào cản đối với việc ra đời, phát triển, hoàn thiện các yếu tố thị trường (quan hệ cung - cầu về hàng hóa và dịch vụ; người mua, người bán, người sản xuất và người tiêu dùng, giá cả, thông tin thị trường...), các loại thị trường (thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường sức lao động, thị trường bất động sản; thị trường tài chính và thị trường khoa học - công nghệ); tích cực xây dựng nền tảng thể chế và pháp lý hỗ trợ, thúc đẩy cho các thị trường ra đời và vận hành theo quy luật vốn có của nó; thừa nhận vai trò của thị trường trong sự phân bổ các nguồn lực phát triển. Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm tạo lập thị trường, khuyến khích thị trường phát triển, cụ thể là:
- Quá trình thực hiện các chức năng của Nhà nước: Nhà nước chú ý đến vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển, đồng thời xã hội hóa một số ngành, lĩnh vực, trước đây được coi là độc quyền nhà nước, chuyển giao cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước đảm nhiệm, như bưu chính viễn thông, cung cấp điện, xuất khẩu... nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Ngoài ra, khi xã hội trưởng thành, Nhà nước có thể chuyển giao việc cung ứng nhiều dịch vụ xã hội cho các tổ chức xã hội, doanh nghiệp xã hội hay các đơn vị sự nghiệp trẻ hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.
Hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: Phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở; Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và can thiệp vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xóa bỏ “bộ chủ quản”; “chính quyền chủ quản” của doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế mới hướng tới xác định quan hệ phù hợp giữa bộ ba: Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp theo nguyên tắc cơ chế thị trường.
- Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo các quy luật thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế, kết hợp với điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết.
- Đổi mới phương thức quản lý từ chỗ Nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường sang Nhà nước quản lý vĩ mô, kiến tạo phát triển. Thể hiện ở những phương diện sau:
+ Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bằng chính sách trên cơ sở tôn trọng thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
+ Khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng và khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội đã từng bước được quy định và ban hành trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, các luật, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại...
+ Khung pháp lý về tạo lập các thị trường và tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả, thông suốt. Xóa bỏ cơ chế bao cấp, xây dựng cơ chế thị trường từ giá cả đến lưu thông hàng hóa, tự do hóa giao lưu hàng hóa từ nội đến ngoại thương.
- Nhận thức rõ hơn về tính tất yếu khách quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và cách thức thực hiện dân chủ, về vai trò của dân chủ trực tiếp, đề cao vai trò của dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội, sự đồng thuận xã hội và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ, cần phân biệt, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đề cao vai trò làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng Đảng, Nhà nước, đổi mới, dân chủ hóa hệ thống chính trị. Giải quyết hài hòa, hiệu quả hơn mối quan hệ giữa quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm; dân chủ với tập trung; dân chủ với kỷ luật, kỷ cương; giữa dân chủ với chuyên chính; giữa “xây” và “chống” trong quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống chính trị.
Những bất cập và vấn đề đặt ra
1- Những bất cập
Một là, trong hơn 30 năm qua vai trò, chức năng của Nhà nước chưa thực sự được đổi mới căn bản theo mô hình kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi mô hình nền kinh tế đồng thời thực hiện vai trò “kép”: Một mặt, thực hiện chức năng vai trò quản lý toàn bộ nền kinh tế; mặt khác, đóng vai trò người chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước và đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu đất đai.
Ở góc độ thứ nhất, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ vai trò của “người nhạc trưởng”, tạo môi trường bình đẳng cho sự phát triển các thành phần kinh tế nhằm huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo đó, Nhà nước khi thực hiện chức năng của mình, phải thể hiện vai trò của “Nhà nước kiến tạo, phát triển”. Nhưng ở góc độ thứ hai, Nhà nước thường quan tâm đến mở rộng phạm vi và quy mô sở hữu của mình, phát triển các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, bằng các biện pháp hành chính.
Một bài toán hóc búa trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước sau hơn 30 năm đổi mới vẫn chưa có lời giải là doanh nghiệp nhà nước chiếm nhiều vốn nhất, nhưng năng suất thấp, tạo ít việc làm nhất, thất thoát, thua lỗ nhiều, hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh doanh thấp và dấu hiệu cải thiện khá chậm chạp.
Hai là, tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh tranh và làm suy giảm năng lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tình trạng độc quyền, trái với quy luật cạnh tranh ở một số lĩnh vực vẫn tồn tại. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Môi trường kinh doanh, đầu tư chưa thật sự thông thoáng, chưa bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
Ngoài việc thiếu bình đẳng, vẫn tồn tại nhiều thủ tục hành chính phiền hà, nhiều chi phí phi chính thức nhằm “bôi trơn”, nhiều thái độ thiếu thân thiện với doanh nghiệp. Những quy định về việc gia nhập và rút khỏi thị trường, phá sản doanh nghiệp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh doanh, vi phạm pháp luật kinh doanh... vẫn khá phức tạp và khó thực hiện, gây rất nhiều khó khăn và phí tổn cho doanh nghiệp.
Ba là, thể chế KTTT ở nước ta vẫn chưa tôn trọng vai trò, chức năng của thị trường, chưa coi thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo quy luật vốn có không phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội nào cả, kể cả ý chí của Chính phủ. Thể hiện rõ nhất là: vẫn còn duy trì chính sách bao cấp, cơ chế “xin - cho” của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp; vẫn duy trì những doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh doanh cần chuyển sang thị trường cạnh tranh; vẫn tồn tại cung cách quản lý bao cấp, quan liêu, vẫn sử dụng nhiều chính sách trợ cấp, trợ giá theo kiểu cũ, không khuyến khích được tinh thần tự lập, tự cường của đối tượng được trợ cấp. Những bộ phận chính sách và thể chế đó không phù hợp thực tế KTTT, thậm chí tạo ra bất bình đẳng, trở thành “tấm bình phong” che đậy lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, hành vi tham nhũng, lạm quyền... làm giảm động lực phát triển kinh tế.
2- Những vấn đề đặt ra cần giải quyết triệt để
Thứ nhất, đổi mới tư duy, nhận thức về KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Trong giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế nước ta cần có nhận thức và tư duy mới về KTTT, cần một nền KTTT thực sự và đầy đủ, xóa bỏ hết các yếu tố bao cấp, “xin - cho” để tạo ra thị trường cạnh tranh sôi động. Thể chế kinh tế phải tạo ra một thị trường cạnh tranh, môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, thông thoáng, minh bạch; bảo đảm một môi trường bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; tăng cường tự do, bình đẳng mà giảm thiểu ưu tiên, ưu đãi, xóa bỏ độc quyền để có môi trường kinh doanh, đầu tư tuân thủ đúng quy luật KTTT. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn phải hướng tới KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế như của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội không thể tách rời với hoàn thiện thể chế kinh tế.
Quá trình phát triển nền KTTT ở mỗi quốc gia có quan hệ gắn bó và phụ thuộc trực tiếp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT. Thể chế KTTT được hiểu là tổng thể các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau bảo đảm cho nền KTTT vận hành thông suốt. Về cơ bản, có 3 yếu tố:
- Các bộ quy tắc, luật lệ định chế các hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường là bộ công cụ điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường.
- Vị thế, vai trò, năng lực và phương thức tổ chức, vận hành của các chủ thể tham gia thị trường, đó là nhà nước, các chủ thể kinh tế có cung - cầu hàng hóa và dịch vụ với các vị thế khác nhau và tồn tại trong quan hệ tương hỗ với nhau.
- Cơ chế, cách thức tổ chức, thực hiện các luật lệ, quy tắc hoạt động của thị trường nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong đợi.
Mỗi một nền kinh tế có thể chế kinh tế riêng phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển. Thể chế kinh tế do nhà nước ban hành nhưng vận hành và thực thi trong các hoạt động kinh tế lại do các doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng và cộng đồng.
Việc tiếp tục xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở nước ta cần gắn liền với hoàn thiện các thể chế:
- Thể chế huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển, như nguồn vốn tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên nước...), khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... với các yêu cầu: xóa bỏ triệt để cơ chế “xin - cho”; kiến tạo cho thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, bên cạnh việc huy động, phân bổ và sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch chính sách của Nhà nước; về nguyên tắc phải thực hiện theo cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong phân phối các nguồn lực nói chung, tư liệu sản xuất nói riêng.
- Hoàn thiện thể chế phát triển trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản công, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ.
- Hoàn thiện thể chế liên quan đến hoàn thiện quan hệ sản xuất, như thể chế hóa quyền tài sản; hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ; hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; hoàn thiện thể chế phân phối kết quả sản xuất để giải phóng sức lao động, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội...
Thứ ba, bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong việc điều hành kinh tế vĩ mô. Bởi vì:
- Trên thực tế, khó có thể có thị trường tự do theo nghĩa tuyệt đối. Hay nói cách khác, thị trường phải chịu sự điều tiết của pháp luật, chính sách kinh tế của nhà nước, các quy định của các hiệp hội... trong từng thời kỳ. Và trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thị trường còn chịu sự tác động của các rào cản kỹ thuật, thương mại do các nước dựng lên và từ các quy định của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các định chế song phương, đa phương khu vực, quốc tế khác. Ngoài ra, còn phải kể đến cơ chế cạnh tranh, quan hệ cung - cầu trên thị trường...
- Trong nền KTTT hiện đại, nhà nước luôn luôn tham gia điều tiết, can thiệp vào sự vận hành của thị trường, nhưng phải luôn luôn bảo đảm duy trì cạnh tranh, khuyến khích tự do cạnh tranh theo pháp luật, nghiêm cấm các hành vi cản trở cạnh tranh và những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, phi đạo đức... Sự điều tiết và can thiệp của nhà nước về cơ bản chỉ ở mức bảo đảm các cân đối vĩ mô, định ra những luật lệ chung, thúc đẩy các hoạt động sáng tạo đổi mới và hiệu quả; cung ứng các dịch vụ, các hàng hóa công cộng thiết yếu...
- Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường... nếu chỉ dựa vào nhà nước hay thị trường mà coi nhẹ vai trò xã hội thì khó có thể giải quyết thành công. Ví dụ: giải quyết vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm nếu chỉ dựa vào Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mà không tính đến sự tác động của thị trường và sự giám sát, hỗ trợ của các tổ chức xã hội thì mục tiêu đến năm 2020 không còn thực phẩm “bẩn”, thực phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn sẽ khó thành hiện thực.
Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng, trong thời gian tới việc cần tập trung giải quyết là cải thiện chất lượng quản lý của Nhà nước, làm cho mọi hoạt động của Nhà nước trở nên minh bạch hơn, hướng đến thị trường và xã hội nhiều hơn... theo tinh thần Đại hội XII đã chỉ ra: “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.
Thứ tư, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý để mở rộng vai trò các tổ chức xã hội cung ứng một số dịch vụ công mà nhà nước không cần thiết nắm giữ và doanh nghiệp xã hội phù hợp với nền KTTT định hướng XHCN.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, Nhà nước có trách nhiệm chi trả phí và tổ chức cung ứng các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu. Bên cạnh đó, có nhiều loại hình dịch vụ sự nghiệp công có thể ủy quyền cho các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đứng ra cung ứng theo nguyên tắc phi lợi nhuận dưới nhiều hình thức đa dạng: nhà nước chi trả phí, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm tổ chức cung ứng, nhà nước kiểm soát chất lượng, tổ chức xã hội tự huy động nguồn lực và tổ chức cung ứng dịch vụ, do nhà nước quản lý chất lượng thống nhất. Điều đó vẫn tuân thủ nguyên tắc cạnh tranh trên thị trường dịch vụ sự nghiệp công và vai trò quản lý chất lượng dịch vụ của nhà nước.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp xã hội lần đầu tiên được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo đó, doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng; sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để đầu tư thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.
Sự phát triển của doanh nghiệp xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng XHCN ở nước ta. Vì vậy, đây không chỉ là xu hướng chung của thế giới, mà còn rất cần thiết ở Việt Nam. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng, vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp luật và chính sách là điều kiện thiết yếu để các doanh nghiệp xã hội phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của doanh nghiệp xã hội ở nước ta. /.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét