nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất”1. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển; đồng thời, đó cũng là tư tưởng, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo chiến lược để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại, mà trước hết là xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới.Tình hình thế giới hiện nay đang chuyển từ trật tự đơn cực sang trật tự mới theo xu hướng đa cực, với sự xuất hiện của nhiều trung tâm quyền lực quốc tế; các nước lớn có sự điều chỉnh về chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Trong quá trình ấy và trên từng khu vực, do nhu cầu khách quan của quan hệ đan xen lợi ích, không chỉ các nước lớn hoặc các nước nhỏ thiết lập quan hệ với nhau, mà giữa nước nhỏ với nước lớn cũng tồn tại sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, tạo sự quan hệ phong phú, đa tầng nấc, quy mô và cấp độ khác nhau. Đó là mối quan hệ hai chiều, được xác lập và quy định bởi nhân tố khách quan, không có việc chỉ nước nhỏ mới cần hoặc phụ thuộc vào nước lớn, còn nước lớn thì không; trái lại, nước lớn cũng cần hoặc phụ thuộc vào nước nhỏ. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa - chiến lược quan trọng và có tiềm năng phát triển trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nên luôn là tâm điểm chú ý của các nước lớn về nhiều phương diện, trong đó có quốc phòng, an ninh với cả khía cạnh tích cực và tiêu cực. Điều đó đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung, việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn nói riêng những yêu cầu mới rất cao. Trong bối cảnh đó, để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn - yếu tố quan trọng giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong quá trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, hơn bao giờ hết đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tăng cường sự đoàn kết, thống nhất; nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, triển khai đồng bộ các giải pháp, tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng nhằm thống nhất nhận thức và hành động, bảo đảm xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đối với công tác đối ngoại nói chung, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn nói riêng để bảo vệ độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chúng ta cần thấy rằng, việc hoạch định đường lối, chủ trương có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng việc tổ chức thực hiện đường lối đó còn quan trọng hơn. Đường lối của Đảng có đúng đắn, sáng tạo đến mấy, nhưng nếu không được tuyên truyền, quán triệt và cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống xã hội thì sẽ ít có ý nghĩa, tác dụng. Vì thế, phải coi trọng việc tuyên truyền, quán triệt để cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng. Trọng tâm là quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế” và Nghị quyết 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trong đó, cần quán triệt sâu sắc chủ trương chiến lược tại Đại hội XII của Đảng là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, tạo cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện, đảm bảo đúng định hướng, đạt hiệu quả.
Các cấp, ngành, địa phương cần nắm vững tư tưởng, nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế, trong đó có nội dung quan hệ hợp tác với các nước lớn để nâng cao hiệu quả quán triệt, tuyên truyền. Theo đó, cùng với tuân thủ nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc theo đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa, trong quan hệ với các nước lớn cần thấy rõ cả cơ hội và thách thức đan xen. Song vấn đề quan trọng là, cơ hội và thách thức đó bao giờ cũng có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau; trong đó, cơ hội có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời và ngược lại, thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công. Trên cơ sở nắm vững tư tưởng, nội dung đó, cần tổ chức nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền đa dạng, phong phú và hiệu quả. Quá trình thực hiện tuyên truyền, quán triệt phải bảo đảm tính toàn diện, thuyết phục, chân thực, khách quan và điều quan trọng là phải thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, không để xảy ra sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, nhất là chống phá mối quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước khác. Khi tuyên truyền về thời cơ, thuận lợi cần phải đề cập cả khó khăn, thách thức; tuyên truyền về thành tựu đạt được cũng phải nói cả yếu kém, khuyết điểm và những gì chưa làm được. Khi đề cập đến thời cơ, thuận lợi phải tỉnh táo, tránh gây tâm lý chủ quan và khi nói về khó khăn, thách thức nhưng không gây sự bi quan, lo lắng trong dư luận xã hội. Đó là phương thức tuyên truyền tốt nhất, phù hợp và hiệu quả nhất.
Thực tiễn cho thấy, tuyên truyền về công tác đối ngoại, trong đó có mối quan hệ với các nước lớn là rất quan trọng, nhưng cũng rất nhạy cảm. Vì thế, cần phải bám sát sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, xây dựng kế hoạch, nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền chặt chẽ, không để sơ hở. Thêm nữa, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, kết hợp cả thông tin, tuyên truyền trong nước với thông tin đối ngoại, thông tin tuyên truyền của các tổ chức của ta và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với đó, phải đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, ngành, địa phương nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm đối với quốc phòng, an ninh, trong đó có nội dung về phát huy tính độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia khi ứng xử với các nước lớn trong quan hệ đối ngoại.
Hai là, thường xuyên nắm chắc tình hình có liên quan đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, nhất là động thái của các nước lớn để có đối sách phù hợp trong quá trình quan hệ hợp tác
Để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, điều quan trọng trước hết là phải nắm chắc tình hình, nhận thức và đánh giá đúng đối tác, đối tượng có liên quan trực tiếp đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã khẳng định: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Đây là quan điểm bao trùm, xuyên suốt của Đảng về đối tác, đối tượng. Các cấp, ngành, lực lượng cần quán triệt, nắm vững, vận dụng linh hoạt, hiệu quả trong quá trình hội nhập, hợp tác, phát triển, nhất là với các nước lớn. Trong tình hình phức tạp hiện nay, nghiên cứu sâu Nghị quyết và từ kinh nghiệm thực tiễn chúng ta phải thấy rõ tính chất đan xen, sự chuyển hóa linh hoạt giữa đối tác, đối tượng. Cùng một chủ thể nước lớn, có thể ở lĩnh vực này, thời điểm này là đối tác, nhưng trong lĩnh vực khác, thời điểm khác lại trở thành đối tượng. Nói cách khác, đối tác, đối tượng luôn vận động chuyển hóa lẫn nhau tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất định. Do đó, muốn xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, trước hết phải thấu suốt vấn đề cơ bản nêu trên, nhằm chủ động trong mọi tình huống, triệt để tận dụng thời cơ, hóa giải thách thức.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu và dự báo tình hình liên quan đến từng nước lớn, nhóm nước lớn, nhất là những diễn biến và động thái mới có lợi hoặc bất lợi đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc của nhân dân ta. Từ đó, xác định bản chất, nguyên nhân nảy sinh, dự báo hướng phát triển; phân tích tác động của nó tới quan hệ quốc tế cũng như đối với quốc phòng - an ninh của đất nước, v.v. Trên cơ sở đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, quyết sách, phương thức ứng xử đúng đắn, phù hợp trong quan hệ đối ngoại. Trong đời sống quốc tế hiện nay, quan hệ cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn diễn ra gay gắt, tác động mạnh mẽ đến khu vực và thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì thế, quá trình nghiên cứu, dự báo tình hình phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phải đặt các nước lớn là một tâm điểm của công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược.
Ba là, vận dụng phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh một cách linh hoạt, có đối sách phù hợp với từng nước lớn, quan hệ với nước này không làm ảnh hưởng tới quan hệ với nước khác
Phải khẳng định rằng, trong mọi giai đoạn lịch sử, các nước lớn luôn có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Do đó, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước lớn là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, quan hệ với các nước lớn bao giờ cũng tồn tại cả thời cơ và thách thức, thậm chí cả sự áp đặt, lệ thuộc nếu chúng ta không tỉnh táo, khôn khéo, dẫn tới xử lý thiếu đúng đắn, phù hợp, sẽ dễ rơi vào thế bất lợi. Mặt khác, cần thấy rằng, trong xu thế toàn cầu hóa, bản thân các nước lớn, vì lợi ích riêng nên họ có nhu cầu quan hệ với các nước khác, những nước tạm gọi là nhỏ như Việt Nam. Nhưng, nguyên tắc quan hệ giữa các nước là bình đẳng, không tồn tại khái niệm về nhỏ - lớn. Có những nước mà trong con mắt của ai đó là nhỏ, nhưng lại có vị thế địa - chiến lược quan trọng. Rõ ràng nước đó nhỏ mà không nhỏ. Ngược lại, có những nước được coi là lớn, rộng về địa lý, nhiều về dân số, nhưng vị thế, vai trò trong cộng đồng quốc tế lại “tầm tầm”, rõ ràng nước đó lớn mà không lớn. Vì thế, trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần phải tự tin, tránh tự ti “nước nhỏ”, từ đó tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh với những đối sách phù hợp. Đồng thời, luôn xác định đây là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động trong quá trình xử lý mối quan hệ với các nước lớn, nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước, gắn với giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Để thực hiện tốt phương châm này, trước hết, chúng ta cần quán triệt và kiên quyết thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, không lệ thuộc trong quan hệ với các nước, trong đó có các nước lớn. Đồng thời, chủ động đẩy mạnh hợp tác theo hướng thiện chí, minh bạch, tăng cường xây dựng lòng tin với các đối tác. Trong đó, cần khéo léo không để các nước hiểu lầm Việt Nam “bắt tay” với nước này, chống nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hiện nay, quan hệ giữa nước ta với các nước lớn nói chung đang phát triển tốt đẹp, điều đó thiết thực góp phần vào công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta chủ quan hoặc tự tin thái quá, dẫn tới sao nhãng những vấn đề nhạy cảm khác có thể gây bất lợi đối với nước ta. Nói cách khác, chúng ta cần phải rất tỉnh táo, hiểu đúng mình và đối tác, thấy rõ mặt tích cực và tiêu cực của mối quan hệ với từng nước lớn; đặc biệt, phải dự liệu đầy đủ mọi việc, chủ động trong mọi tình huống, nhất là khi mối quan hệ “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Do đó, một lần nữa cần khẳng định rằng, phải thấu suốt quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trên từng vấn đề, sự việc cụ thể theo phương châm: tăng cường điểm đồng, giảm thiểu bất đồng; có đối sách linh hoạt, mềm dẻo để tránh đối đầu, căng thẳng hoặc lệ thuộc, trên cơ sở nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Tiếp tục chính sách “cân bằng nước lớn” và xem đó là lựa chọn tất yếu trong duy trì quan hệ với các cường quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực ngày càng diễn biến phức tạp, chính sách này dù là lựa chọn hàng đầu cũng cần có cách tiếp cận linh hoạt để đạt được lợi ích tối đa. Theo đó, cùng với chủ trương phát triển quan hệ ở tầm đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện với từng nước lớn, chúng ta cần đẩy mạnh quan hệ với các nước lớn khác và các nước đang phát triển với những cơ chế hợp tác, đối thoại, trao đổi phù hợp, tạo thế đan xen lợi ích với từng đối tác và với các nước lớn. Qua đó, tăng cường hợp tác và đấu tranh; trong đó, có thể tranh thủ quan hệ với nước lớn này để tác động quan hệ với nước lớn khác trong xử lý các tình huống phức tạp cụ thể, tránh trở thành “con bài” để các nước lớn mặc cả lợi ích trong quan hệ quốc tế. Đây là cách ứng xử rất linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia để thực hiện mục tiêu đối ngoại bất biến, đó là lợi ích quốc gia - dân tộc.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng thực lực quốc gia vững mạnh, làm cơ sở xử lý mối quan hệ với các nước lớn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ với các nước lớn nói riêng, cùng với xác định đường lối, chính sách và phương thức đối ngoại thì vấn đề thực lực của quốc gia là nội dung rất quan trọng, nhằm khẳng định vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Vì thế, chăm lo xây dựng thực lực của đất nước ngày càng vững mạnh đã, đang trở thành giải pháp quan trọng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mà còn trực tiếp góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn. Đó cũng chính là quan điểm được Đại hội XII của Đảng xác định; đó là: “đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước”2, đảm bảo cho nước ta là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thời gian qua, nhất là sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng, chúng ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thực lực của quốc gia ngày càng được tăng cường. Từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận và một nền kinh tế kém phát triển, “đóng cửa”, Việt Nam đã không ngừng phát triển và vươn mạnh ra thế giới. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Phúc lợi xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Năm 2015, Việt Nam là một trong những quốc gia về đích trước 10 năm với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Hơn thế, Việt Nam còn tham gia và là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như: thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO - năm 2007); Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (giai đoạn 2008 - 2009); Chủ tịch Hội nghị Giải trừ quân bị của Liên hợp quốc (năm 2009), v.v. Đó là cơ sở, nền tảng rất quan trọng để khẳng định vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ với các nước lớn nói riêng.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh với các nước lớn
Nhìn chung, các nước lớn có lợi thế trong quan hệ quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về chính trị, quân sự, tiềm lực khoa học công - nghệ và đều là các trung tâm kinh tế thế giới. Vì thế, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh với các nước lớn là vấn đề cần thiết, quan trọng; một mặt, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển, nâng cao vị thế, uy tín đất nước; mặt khác, tranh thủ mọi nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm từ các nước này để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Đồng thời, đó còn là một định hướng chiến lược, là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Thấu suốt điều đó, những năm qua, chúng ta đã thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng, an ninh với các quốc gia, trong đó có các nước lớn; đã chọn đúng khâu đột phá, với bước đi thích hợp, từng bước đưa công tác này đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với hơn 80 nước, trong đó có 5 nước lớn là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, qua đó tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, năm 2010, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất, với sự tham gia của một số nước lớn đã nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, nhất là trong con mắt của các cường quốc. Đó cũng là một trong những tiền đề quan trọng cùng với các hoạt động đối ngoại khác để chúng ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn. Theo đó, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an - lực lượng nòng cốt trong tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đối ngoại quốc phòng, an ninh và tổ chức thực hiện cần tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu chiến lược, đánh giá dự báo đúng tình hình các nước lớn, trên cơ sở đó, chủ động hoạch định chiến lược tổng thể cùng các giải pháp đồng bộ để chỉ đạo thống nhất các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực quan trọng này. Trong đó, cần tập trung nghiên cứu xây dựng đề án quan hệ quốc phòng, an ninh bền vững với đối tác là các nước lớn, có nền công nghiệp quốc phòng phát triển, mà trọng tâm là hợp tác trên các lĩnh vực: nghiên cứu chiến lược; hiện đại hóa Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ đất nước và trong đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu. Đồng thời, cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn trong quá trình triển khai đề án đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, trước hết là các cơ quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh song phương với các nước lớn một cách toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, nhất là triển khai hợp tác một cách thực chất, hiệu quả các thỏa thuận đã ký với từng nước lớn. Riêng lĩnh vực quốc phòng, quá trình hợp tác, cần kết hợp chặt chẽ các hoạt động thương mại quân sự, kinh tế quân sự, kỹ thuật quân sự và hợp tác công nghiệp quốc phòng với các hoạt động hợp tác quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu hội nhập và đối ngoại đã đề ra. Trong đó, việc hợp tác mua sắm vũ khí, trang bị mới, hiện đại với các nước lớn là cần thiết, nhưng phải thận trọng và có tầm nhìn chiến lược, bảo đảm dự liệu đầy đủ các tình huống, kịch bản có thể xảy ra, nhất là trong hợp tác chuyển giao công nghệ, quy trình quản lý, sản xuất, bảo dưỡng,… để không rơi vào thế bị động, bất ngờ và lệ thuộc vào đối tác. Đặc biệt, phải tỉnh táo, cân nhắc mọi vấn đề, mọi khía cạnh và đặt mối quan hệ hợp tác đó trong bối cảnh đất nước có biến động, xảy ra chiến tranh. Cùng với đó, cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong hoạt động đối ngoại về các vấn đề, lĩnh vực có liên quan nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn.
Quan hệ với các nước lớn là định hướng lớn, phương châm, tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, được xác định rõ tại Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI). Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, nắm vững, thực hiện có hiệu quả quan điểm trên của Đảng. Đặc biệt, xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong tình hình mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét